“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.”
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:
“Thằng nào dám tới lẫy lừng vào
đây
Trước gây việc dữ tại mày,
Truyền quân bốn phía phủ vây bịt
bùng.”
Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương
Dang
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy
ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân
vong
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong
Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này
?”
Thưa rằng: “Tôi thiệt người ngay
Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ
Trong xe chật hẹp khôn phô
Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng.”
Vân Tiên nghe nói động lòng
Đáp rằng: “Ta đã trừ dòng lâu la
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai
Tiểu thơ con gái nhà ai
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ ?
Chẳng hay tên gọi là chi ?
Khuê môn phận gái việc gì đến đây
?
Trước sau chưa hãn dạ này
Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra ?”
Thưa
rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga
Con
này tì thất tên là Kim Liên
Quê
nhà ở tận Tây Xuyên
Cha
làm tri phủ ở miền Hà Khê
Sai
quân đem bức thư về
Rước
tôi qua đó định bề nghi gia
Làm
con đâu dám cãi cha
Ví
dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành
Chẳng
qua là sự bất bình
Hay
vầy cũng chẳng đăng trình làm chi
Lâm
nguy chẳng gặp giải nguy
Tiết
trăm năm cũng bỏ đi một hồi
Trước
xe quân tử tạm ngồi
Xin
cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa
Chút
tôi liễu yếu đào thơ
Giữa
đường lâm phải bụi dơ đã phần
Hà
Khê qua đó cũng gần
Xin
theo cùng thiếp đền ơn cho chàng
Gặp
đây đương lúc giữa đàng
Của
tiền chẳng có bạc vàng cũng không
Gẫm
câu báo đức phù công
Lấy
chi cho phĩ tấm lòng cùng ngươi.
Vân Tiên nghe nói liền cười:
“Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Nay đã rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh
hùng”.
A. MỞ
BÀI
“Sự
đời thà khuất đôi tròng thịt
Lòng
đạo xin tròn một tấm gương”
(Nguyễn
Đình Chiểu)
Sống
giữa cái xã hội đảo điên, nhân tình thế thái đen bạc ở giữa thế kỷ XIX, nhà chí
sĩ Nguyễn Đình Chiểu dù gặp cuộc đời nghiệt ngã, vẫn suốt đời phấn đấu và thực
hiện cho được lý tưởng nhân nghĩa mà ông hằng theo đuổi… Lý tưởng đó đã được
tác giả gửi gắm trong tác phẩm “Lục Vân Tiên” - một tác phẩm mang tính chất tự
thuật được nhân dân ta yêu thích. Qua hành động “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt
Nga”, ta phần nào hiểu được quan niệm sống nhân nghĩa cao đẹp ấy.
B. THÂN
BÀI
Sau
khi từ giã thầy học của mình, Vân Tiên trở về quê thăm viếng cha mẹ để chuẩn bị
lên kinh đô ứng thí, giữa đường gặp người dân chạy loạn do bọn cướp gây nên,
chàng đã hỏi qua sự tình và nguyện “Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”…
Trong
xã hội phong kiến việc thi cử là một việc hệ trọng đối với kẻ sĩ. Ở hoàn cảnh bất
thường đó, người ta thường dễ né tránh mọi nguy hiểm để giữ toàn tính mạng… Thế
nhưng Lục Vân Tiên đã không suy nghĩ theo kiểu thường tình như vậy, thấy người
bị nạn, chàng đã tìm cách cứu giúp bằng cách “bẻ cây” làm vũ khí xông vào đánh
bọn cướp:
“Vân
Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ
cây làm gậy nhằm làng xông vô”.
Đó
là hành động giàu lòng nghĩa hiệp của một con người. Tính cách vì nghĩa
không chỉ thể hiện ở hành động mà còn đọng lại trong lời kết tội bọn cướp:
“Kêu
rằng: bớ đảng hung đồ
Chớ
quen làm thói hồ đồ hại dân”
Nghĩa
cử cao đẹp ấy xuất phát từ lòng yêu thương những người dân lương thiện vô tội
và cũng vì họ mà chàng sẵn sàng cản ngăn những việc làm “hại dân” của lũ côn đồ
hung bạo kia. Việc xảy ra giữa đường, những người dân chạy cướp kia đều không hề
có liên quan đến chàng. Thế nhưng thấy việc nghĩa là phải ra tay, việc làm ấy
sao giống nghĩa cử của Hớn Minh, ông Ngư…
"
Chuyển: Mặc dù chàng chỉ có một
thân một mình, vũ khí chỉ là cây gậy còn bọn cướp thì đông đảo “Lâu la bốn phía
bổ vây bịt bùng”, có gươm giáo và thật hung hãn thế nhưng chàng vẫn không sờn
lòng. Người tráng sĩ ấy đả “tả đột hữu xông”, “Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương
Dang”. Chàng đích thực là một người có tài thao lược và tinh thần dũng cảm.
Sự dũng cảm ấy làm cho hình ảnh của chàng trở nên đẹp đẽ và khiến cho mọi người
thêm phục… Được sự cổ vũ của lý tưởng nhân nghĩa, do tài năng võ nghệ và sự
dũng cảm phi thường, Vân Tiên đã làm cho bọn lâu la phải “quăng gươm giáo”, còn
tên tướng cướp Phong Lai phải bỏ mạng, chàng thư sinh họ Lục hoàn toàn làm chủ trên
chiến trường.
"
Chuyển: Tính cách của Lục Vân
Tiên còn được bộc lộ qua việc giao tiếp với những nạn nhân vừa được chàng cứu sống…
Chàng đã ân cần, thăm hỏi những người bị nạn và thật xúc động khi nghe Kiều
Nguyệt Nga trần tình. Đó chính là biểu hiện cho tấm lòng nhân hậu của một
con người:
“Vân
Tiên nghe nói động lòng
Đáp
rằng: ta đã trừ dòng lâu la”…
Không
chỉ thực hiện được hai chữ “nghĩa”, “nhân” mà Lục Vân Tiên còn biết giữ cho
mình chữ “lễ” theo đúng quan niệm Nho gia xưa kia. Đó là sự giao tiếp đứng
đắn của một người có đọc sách thánh hiền với một người phụ nữ hoàn toàn xa lạ với
mình;
“Khoan
khoan ngồi đó chớ ra
Nàng
là phận gái ta là phận trai”.
Nhưng
có lẽ điều mà khiến cho mọi người càng thêm cảm phục chàng đó chính là tính
cách “trọng nghĩa khinh tài” cao thượng. Khi nghe Nguyệt Nga mời mọc chàng
ghé lại nhà và ngỏ ý “báo đức thù công”, Vân Tiên đã khước từ mọi chuyện ân huệ:
“Vân
Tiên nghe nói liền cười
Làm
ơn há dễ trông người trả ơn”
Trước
tấm chân tình ơn đền nghĩa trả của nạn nhân vừa được cứu giúp, Vân Tiên chỉ
đánh đổi bằng một cái cười hồn nhiên của một con người hào hiệp, quen sống vô
tư, làm việc nghĩa theo bản tính của mình. Một nụ cười tốt bụng, đôn hậu, rất đặc
trưng cho người trai Nam bộ. Nói như nhà thơ Xuân Diệu: “Cái cười đáng yêu,
đáng kính sao ! Một là cái cười của anh hùng quân tử, hai là cái cười của anh
con trai, ba là cái cười của quần chúng rộng lượng, đều ở trên môi Vân Tiên”.
Hơn nữa, thấy việc nghĩa là phải ra tay đó là nghĩa vụ của kẻ làm trai, là thước
đo phẩm chất của một người anh hùng theo quan nệm của Vân Tiên mà cũng là quan
niệm của Nguyễn Đình Chiểu và nhân dân ta nói chung:
“Nhớ
câu kiến ngãi bất vi
Làm
người thế ấy cũng phi anh hùng”
Trong
lời nói hào hiệp đó, ta nghe âm vang tiếng nói của Từ Hải trong “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du vốn được nhiều người yêu mến và ca tụng:
“Anh
hùng tiếng đã gọi rằng
Giữa
đường dẫu thấy bất bằng mà tha”
Với
một chiếc gậy bên đường mà một mình dám xông vào một lũ lâu la quen nghề gươm
giáo, việc làm ấy thật nguy hiểm mà vẫn thản nhiên như không đồng thời chỉ đánh
đổi bằng một nụ cười nhẹ nhàng, đáng yêu. Hành động, tâm tư tình cảm của Vân
Tiên là bóng dáng cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu… Đó còn là suy nghĩ và hành động
vì nghĩa của cả tập thề những con người biết sống đẹp mà tác giả đã tái hiện
trong tác phẩm: một ông Ngư “Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”, một Hớn Minh
nghĩa hiệp… Có thể nói là Nguyễn Đình Chiểu đã đưa vào trận “Cả một đạo quân bừng
bừng khí thế, kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu và chiến thắng” (Hoài
Thanh). Hành động nghĩa hiệp ấy thật đẹp. Lý tưởng sống của cụ Đồ Chiểu rất gần
với lý tưởng anh hùng của thời đại chúng ta…
C.
KẾT
BÀI
Qua
việc vận dụng nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật theo thủ pháp quen thuộc của
truyện cổ dân gian: để cho nhân vật trực tiếp bộc lộ bản chất, tính cách bằng
hành động cụ thể, đoạn trích đã làm ngời lên nhân vật trung tâm của truyện: một
con người có bản tính nhân nghĩa hào hiệp, giàu lòng thương người, một hiện
thân của cái thiện chống cái ác…
Hình
ảnh Lục Vân Tiên như nhắc nhở thế hệ trẻ chúng ta sống phải có trách nhiệm với
mọi người, luôn luôn có ý thức mình là con cháu Nguyễn Đình Chiểu, một người
mang dòng máu anh hùng, vô tư hào hiệp của nhân dân Nam bộ, của dân tộc Việt
Nam.
Charles.Hieu
“Phân tích riêng cho con, Minh Phúc”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét