Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

KHÁNH THÀNH NHÀ THỜ DÒNG PHAN SINH THỪA SAI ĐỨC MẸ


Trong không khí hân hoan, sáng nay tại 269 Nguyễn Văn Đậu, phường 11, quận Bình Thạnh - Tu viện Thánh Tâm - đã diễn ra Lễ khánh thành Nhà thờ Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ.


Hơn 600 ân nhân, giáo dân và các tu sĩ, cha các xứ và Đức Tổng Giám Mục phó Giáo phận đã cùng nhau tề tựu, thực hiện nghi lễ khánh thành và chúc phúc cho nhà thờ.



Công trình nhà thờ được thiết kế và chỉ đạo thi công bởi cùng một kiến trúc sư - một Thầy Dòng - khiêm tốn ẩn mình (Quý vị có thể biết thêm về Thầy qua trang https://antduyblog.wordpress.com/) .

Được nhìn quy mô và sự đầu tư cho nhà thờ của Dòng tu, mình thật sự ngã mũ khâm phục đức hy sinh của các Sơ cho công việc xây dựng nhà Chúa.


Bên cạnh đó sự vui chung, mình cũng hãnh diện khi được nhình các tác phẩm của gia đình Thiên Thi Ân: bàn thờ chính, thánh giá Chúa, nhà tạm, ghế chủ tế, bục giảng và các hạng mục khác… để vinh danh vương cung thánh đường trong nhà thờ này.


Chúc quý giáo sĩ  và các ân nhân tràn đầy hồng ân Thiên Chúa.

Thứ Hai, 17 tháng 2, 2014

BÀI THƠ BẾP LỬA


Một bếp lửa chờn vờn sương sớm,
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.


Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói,
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy.
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu,
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.


Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa,
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa.
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà ?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế,
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế.
Mẹ cùng cha bận công tác không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc.
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?


Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi,
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi,
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh.
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
"Bố ở chiến khu bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên".


Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen!
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng,
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa!

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ,
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm,
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!


Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?

(Bằng Việt - 1963)
huỳnh văn hạnh, nguyễn quốc khanh, trần quốc mạnh, đặng quốc hùng, nguyễn thanh phong, nguyễn chánh phương, chủ tịch hawa, chủ tịch hội mỹ nghệ và chế biến gỗ thành phố hồ chí minh, lê cường, bùi kim oanh, nguyễn thanh hồng, lê cường, bùi kim oanh, nguyễn thanh hồng, trần thị kim, vifa, vifahome, vifafair, vifahome 2013, vifafair 2013, gỗ liên minh

Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014

ĐỀ: THUYẾT TRÌNH TÁC PHẨM “TRUYỆN LỤC VÂN TIÊN”



A.    TÁC GIẢ - TÁC PHẨM

-  Phần giới thiệu về tác giả và tác phẩm: xem sách giáo khoa.

-  Bổ sung: “Lục Vân Tiên” ra đời vào khoảng đầu những năm năm mươi của thế kỷ XIX, và ngay lập tức, nó được đồng bào Nam bộ tiếp nhận nồng nhiệt. Từ một truyện thơ chỉ được truyền miệng và chép tay, lưu hành trong đám môn đệ và bè bạn của nhà thơ Đồ Chiểu, “Lục Vân Tiên” đã nhanh chóng được truyền bá khắp chợ cùng quê, đến với những người biết chữ và cả những người không biết chữ.

     Hãy nghe một câu hò mái nhì Trị Thiên:

“Lòng lại dặn lòng, dầu non mòn biển cạn
Dạ lại dặn dạ, dầu đá nát vàng nhòa
Em đây quyết noi gương chị Nguyệt Nga
Mặc ai phỉnh dỗ, em chẳng sai lời nguyền”.

B.     TÓM TẮT TRUYỆN

 -   Xem sách giáo khoa

C.     GIÁ TRỊ TÁC PHẨM

1.  Giá trị nội dung:

-  Truyện ca ngợi những con người trung hiếu, tiết nghĩa. Ngay mở đầu tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu đã viết:

“Hỡi ai lẳng lặng mà nghe
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”.

Đó là tâm niệm suốt cả cuộc đời của nhà thơ mù lòa Nguyễn Đình Chiểu. Tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng quên mình để cứu khốn phò nguy, bênh vực những con người yếu đuối, bất hạnh, người anh hùng trong tác phẩm “Lục Vân Tiên” dám chiến đấu để chống lại các ác, cái xấu, cái bất nhân phi nghĩa, bênh vực những con người thấp cổ, bé họng, bị chà đạp bởi cường quyền, bạo lực. Bước vào tác phẩm, chàng trai Lục Vân Tiên đã chinh phục tình cảm yêu mến và cảm phục của người đọc bằng một hành động nghĩa hiệp, cứu nhân độ thế. Đang trên đường về thăm cha mẹ trước khi tới trường thi, Vân Tiên gặp cảnh nhân dân phải chạy giặc cướp rất khốn khó. Chàng đã “nổi giận lôi đình”:

“Tôi xin ra sức anh hào
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”.

Vân Tiên đã không tính toán thiệt hơn, một mình “bẻ cây làm gậy”, “tả xung hữu đột” vào đám cướp đánh tan “lũ kiến chòm ong”, cứu Kiều Nguyệt Nga và cô hần Kim Liên thoát khỏi bàn tay hung bạo. Chàng trai “tuổi vừa hai tám” dẫu chưa gặp “hội long vân”, đã có dịp thi thố tài năng cứu đời, giúp người, đáng mặt trang hiệp sĩ. Đến khi đỗ trạng nguyên, Vân Tiên lại “Lãnh cờ bình tặc phá thành Ô Qua” để chống giặc ngoại xâm, bảo vệ cuộc sống yên bình cho nhân dân. Hình ảnh người anh hùng lúc này thật lẫm liệt, oai phong:

“Vân Tiên đầu đội kim khôi
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô”

Giữa Kiều Nguyệt Nga và Lục Vân Tiên, sự gắn bó lại khởi phát từ tình nghĩa. Nguyệt Nga là người chịu ơn Vân Tiên, cái ơn đã cứu cả cuộc đời con gái của mình khỏi tay bọn cướp. Từ ân nghĩa, Nguyệt Nga cảm mến cái đức, cái tài của Vân Tiên. Ở đời đâu dễ gặp những chàng trai vẹn toàn như thế ! Và tình yêu nảy nở như một lẽ đương nhiên. Nó sâu nặng trong lòng nàng:

Chữ tình càng tưởng càng thâm
Muốn phai khó lợt, muốn dằm không phai

Nó kết tinh thành một chi tiết nghệ thuật trở đi trở lại nhiều lần trong tác phầm là bức hình Vân Tiên mà Nguyệt Nga đã vẽ bằng trí tưởng tượng trong giờ phút “chạnh lòng cố nhơn”. Không có lễ giáo nào buộc Nguyệt Nga phải thủ tiết với Vân Tiên, chỉ ân tình ấy đã giúp nàng đủ sức vượt qua mọi thủ thách, kể cả cái chết để giữ trọn lời thề với chính lòng mình:

“Trăm năm thề chẳng lòng phàm
Sông Ngân đưa bạn, cầu Lam rước người
Thân con còn đứng giữa trời
Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi.”

Còn Vân Tiên, vốn tính khảng khái “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, chàng đã từ biệt cô gái đẹp mình vừa cứu thoát ra đi một cách thanh thản, vô tư. Nhưng khi được biết rõ tấm lòng Nguyệt Nga, Vân Tiên rất cảm kích. Lúc này chàng trở lại là người chịu ơn bởi Nguyệt Nga đã chu toàn cho cha già khi mình vắng mặt:

“Nhờ nàng nên mới ra bề
Chẳng thì khó đói bỏ quê đi rồi”

Gặp lại Nguyệt Nga, Vân Tiên - khi đó đã là bậc Quốc trạng triền đình - vẫn quỳ vái nàng ba lạy:

“Để lời thệ hải minh sơn
Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi”

rồi sau đó mới cùng nhau “Kiệu vàng tán bạc hiển vinh về nhà”. Quả là trọn nghĩa vẹn tình, đâu phải chỉ người đàn bà mới có bổn phận thủy chung ! Lục Vân Tiên và Kiền Nguyệt Nga không được miêu tả như một cặp tài tử - giai nhân với tất cả những rung động của trái tim khao khát yêu thương, mà tác giả hướng về đạo vợ chồng, cái nghĩa đá vàng sâu nặng, dầu vật đổi sao dời cũng không hề thay đổi. Đó chính là tính chất nhân dân bình dị của truyện “Lục Vân Tiên”.

Trong văn học trung đại Việt Nam, có một loại văn chương thường truyền dạy những bài học đạo đức cho con người. Lẽ tất nhiên, muốn đạt tới giá trị văn chương, nó phải được khơi nguồn bởi những cảm hứng đạo đức mãnh liệt tận trong cõi lòng của tác giả. “Lục Vân Tiên” là trường hợp như vậy.

-  Truyện còn đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng giúp đỡ người khốn khó. Qua đó tác giả kính đáo thể hiện thái độ yêu thương, bênh vực trước những số phận đau khổ.

Khác với Vân Tiên, Hớn Minh chỉ là nhân vật phụ, xuất hiện có ba lần trong tác phẩm với những dòng thơ ngắn ngủi. Nhưng Hớn Minh lại là nhân vật mang dáng vẻ riêng mà người dân Nam bộ đặc biệt yêu thích:

“Đi vừa tới huyện Loan Minh
Gặp con quan huyện Đặng Sinh là chàng
Giàu sang, ỷ thế nghinh ngang
Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì
Tôi bèn nổi giận một khi
Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò”.

Đơn giản thế thôi mà hào hiệp nghĩa khí biết bao ! Hớn Minh muốn dùng sức mạnh của chính mình để chặn đứng những điều xấu, điều ác, bênh vực con người yếu đuối, bất hạnh. Hớn Minh là mẫu người hành động kiên quyết, quả cảm, thấy việc nghĩa là làm, không cần tính toán thiệt hơn. Không muốn liên lụy ai, Hớn Minh “Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng”, rồi sau đó mới vượt ngục, sống “mai danh ẩn tích” ở trong rừng. Lần thứ ba, Hớn Minh cùng sát cánh bên Vân Tiên chiến đấu chống giặc ngoại xâm, cứu nạn nước, rồi sau đó cùng Vân Tiên vinh hiển.

Đó còn là hình ảnh Ông Ngư. Bị Trịnh Hâm đẩy xuống sông, Vân Tiên được ngư ông vớt lên, và cả cái gia đình dân chài đã cứu sống chàng với một tình thương chân thành mộc mạc:

“Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”

 Còn nhân vật Ông Tiều thì cũng sẵn sàng giúp đỡ kẻ khó khăn. Ông đã cứu Vân Tiên khi mắc nạn ở hang núi Thương Tòng. Ông đã tự bộc bạch về mình:

“Già hay thương kẻ khó khăn
Thôi thôi để lão dắt ngay về nhà”

Sự tráo trở của cha con Võ Công còn giúp Vân Tiên hiểu rõ thêm một người bạn quý: chàng Vương Tử Trực trọng nghĩa khinh tài. Thầy Cử tân khoa vừa vinh quy bái tổ là sang ngay nhà họ Võ để hỏi thaăm tin bạn. Vừa thương bạn, vừa giận kẻ bạc tình, Tử Trực quyết không lỗi đạo “Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì”, lại lớn tiếng mắng thẳng vào mặt bọn người phản phúc:

“Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi
Lòng nào mà nỡ buông lời nguyệt hoa
Hổ hang vậy cũng người ta
So loài cầm thú thật là khác chi”

Tấm lòng ngay thằng, trung trực ấy khiến kẻ bạn ác là Võ Công phải hổ thẹn đến mắc bệnh mà chết.

Đó còn là nhân vật tiểu đồng: Lo lắng thuốc thang cho Lục Vân Tiên. Tưởng Lục Vân Tiên chết thật, tiểu đồng khóc lóc thương tiếc, xới một bát cơm và một quả trứng đặt trên ngôi mộ “giả” của chủ. Đọc truyện ta làm sao quên được hình ảnh bà lão - người đã cưu mang, đùm bọc, nuôi nấng Nguyệt Nga, coi Nguyệt Nga như là con gái. Tấm lòng của bà lão không hề biểu hiện sự ban ơn. Đó cũng là biểu hiện tấm lòng rộng mở của nhân dân trong mối quan hệ đồng bào “Lá lành đùm lá rách”.

-  Truyện tố cáo, lên án những cái ác, cái xấu trong xã hội. Những trang thơ Lục Vân Tiên là hình ảnh sống động của cái xã hội ấy. Triều đình hèn yếu, giặc đến không chống đỡ nổi, phải cậy đến sự hi sinh của một người con gái để mong “Phiên vương ưng dạ ắt là bãi binh”. Quan thái sư đương trào đâu có lo việc nước, việc dân, chỉ chăm chăm “nhớ việc cửa nhà” mà xúc xiểm nhà vua “đưa con gái tốt giao hòa thời xong”. Các cậu công tử con quan thì càn rỡ như con trai quan huyện Đặng Sinh:

“Giàu sang, ỷ thế nghinh ngang
Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì”

Bạn bè thì bất nhân như Trịnh Hâm, đan tâm xô bạn xuống sông để thỏa lòng đố kị, bất nghĩa như Bùi Kiệm, dám tán tỉnh và cưỡng duyên với chính vợ của bạn mình. Ông quan hưu trí họ Võ cùng cô con gái Thể Loan nỡ lòng hãm hại chàng rể đui mù để săn đón “thầy cử tân khoa” Vương Tử Trực…

-  Tác phẩm thể hiện ước mơ, khát vọng của người dân hương tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp trong cuộc đời. “Lục Vân Tiên” có kết cấu thông thường của các truyện Nôm, nghĩa là một kết cấu có hậu. Những người tốt, dẫu bị vùi dập oan trái, nhưng bao giờ cũng được phù trợ. Lực lượng phù trợ thường là những con người nhân đức, hào hiệp. Gặp khi nguy cấp mà sức người khó đương  thì lại xuất hiện những lực lượng siêu nhiên huyền bí như Tiên, Phật, thần thánh… Vân Tiên khi bị xô ngã xuống sông đã được “Giao long dìu đỡ”, bị bỏ vào hang Thương Tòng lại được “Du thần” đưa ra cửa rừng, rồi được Tiên ông cho thuốc sáng mắt. Tiểu đồng bị trói ở “bốn bề rừng hoang” đã được Sơn quân “Căt dây mở trói cõng lên ra đàng”. Nguyệt Nga nhảy xuống sông tử tiết lại được “Quan Âm thương đứng thảo ngay”, đưa nàng vào vườn hoa nhà họ Bùi. Cuối cùng họ đều được đền trả xứng đáng:

“Trăm năm biết mấy tinh thần
Sinh con sau nối gót lân đời đời”

Còn những kẻ bạc ác bất nhân, dẫu nhất thời có công danh phú quý, nhưng rồi đều bị trừng trị thích đáng. Thái Sư bị “cách chức về nhà làm dân”, Trịnh Hâm và mẹ con Võ Thể Loan tuy được Vân Tiên tha tội chết, nhưng “trời không dung” nên Trịnh Hâm đã bị “ngọn sóng thần nổi dậy” nhấn chìm thuyền, gửi thân nơi bụng cá, còn mẹ con Thể Loan về đến cửa rừng lại bị cọp bắt “Đem vào lại bỏ trong hang Thương Tòng”. Đọc truyện “Lục Vân Tiên”, người dân miền Nam, người dân Lục tỉnh thấy mình trong đó. Càng thấy mình trong đó thì càng thích đọc Đồ Chiểu và Lục Vân Tiên. Cho đến nay, một thế kỷ rưỡi trôi qua, những quan niệm về con người, về đạo lý đã có nhiều biến cải, nhưng cái cốt lõi nhân bản của mỗi dân tộc vẫn có những sợi chỉ đỏ xuyên suốt mà không hề đứt đoạn. Một trong những sợi chỉ đó đó phải kể đến tác phẩm “Lục Vân Tiên” với vẻ đẹp cao quý và trong sáng của đạo đức nhân dân. Cốt lõi nhân bản ấy làm nên sức sống trường tồn của tác phẩm.

2.  Giá trị nghệ thuật:

- Đây là tác phẩm mang tính tự thuật đặc sắc.

- Ngôn ngữ mộc mạc bình dị mang đậm màu sắc Nam bộ. Viết văn ông chú trọng đến ý nghĩa nhiều hơn hình thức câu văn. Nhưng thỉnh thoảng truyện có chen vào vài đoạn trang nhã, dịu dàng, có cốt cách quý phái:

“Thưa rằng: Quân tử phó công
Xin thương bồ liễu chữ tòng ngây thơ
Tấm lòng thương gió nhớ mưa
Đường xa nghìn dặm xin đưa một lời”

Nếu cần sử dụng những từ ngữ hoa mỹ, ông cũng rất mực chau chuốt trong câu chữ. Nhưng vì mục đích giáo hóa ông có ý dùng một giọng điệu không quá cao đối với trình độ bình dân, do đó tác phẩm “Lục Vân Tiên” rất dễ được phổ thông và lũy tre bờ ruộng ngày nay, nhất là ở miền Nam, ta vẫn còn thoang thoảng được nghe vang dậy những lời thơ gióng giả nhiệt thành của nhà nho Nguyễn Đình Chiểu:

“Trai thòi trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật rất gần với truyện cổ dân gian.


KẾT LUẬN

Yêu thương nhân dân và hiểu rõ những giá trị tinh thần ẩn chứa trong tâm hồn những người dân thường lam lũ, vất vả, chịu nhiều bề áp bức, Nguyễn Đình Chiểu đã vung bút thay gươm, chiến đấu cho đạo đức được vãn hồi, cho lẽ công bằng được thực hiện, cho cuộc sống con người tốt đẹp hơn. Đối với đương thời và đối với cả hàng trăm năm sau nữa, “Lục Vân Tiên” vẫn là một tác phẩm văn chương mang tính nhân bản sâu sắc, là sản phẩm quý báu của một thuở đã qua mà người đời sau trân trọng gìn giữ. Và Nguyễn Đình Chiểu - người đã sáng tạo nên “bản trường ca” bất hủ đó - xứng đáng là nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, là con người “có cái trí để hiểu biết, có cái tâm để yêu thương, có cái tài để thực hiện” như cố thi sĩ Xuân Diệu đã nhận xét.

Charles.Hieu
“Phân tích riêng cho con, Minh Phúc”


Thứ Bảy, 1 tháng 2, 2014

ĐỀ: CẢM NHẬN VỀ NHÂN VẬT LỤC VÂN TIÊN TRONG ĐOẠN TRÍCH “LỤC VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGA” CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU



“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.”
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:
“Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây
Trước gây việc dữ tại mày,
Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng.”
Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong
Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này ?”
Thưa rằng: “Tôi thiệt người ngay
Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ
Trong xe chật hẹp khôn phô
Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng.”
Vân Tiên nghe nói động lòng
Đáp rằng: “Ta đã trừ dòng lâu la
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai
Tiểu thơ con gái nhà ai
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ ?
Chẳng hay tên gọi là chi ?
Khuê môn phận gái việc gì đến đây ?
Trước sau chưa hãn dạ này
Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra ?”
Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga
Con này tì thất tên là Kim Liên
Quê nhà ở tận Tây Xuyên
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê
Sai quân đem bức thư về
Rước tôi qua đó định bề nghi gia
Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành
Chẳng qua là sự bất bình
Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi
Trước xe quân tử tạm ngồi
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa
Chút tôi liễu yếu đào thơ
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần
Hà Khê qua đó cũng gần
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng
Gặp đây đương lúc giữa đàng
Của tiền chẳng có bạc vàng cũng không
Gẫm câu báo đức phù công
Lấy chi cho phĩ tấm lòng cùng ngươi.
Vân Tiên nghe nói liền cười:
“Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Nay đã rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.


A.      MỞ BÀI

“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt
Lòng đạo xin tròn một tấm gương”
(Nguyễn Đình Chiểu)

Sống giữa cái xã hội đảo điên, nhân tình thế thái đen bạc ở giữa thế kỷ XIX, nhà chí sĩ Nguyễn Đình Chiểu dù gặp cuộc đời nghiệt ngã, vẫn suốt đời phấn đấu và thực hiện cho được lý tưởng nhân nghĩa mà ông hằng theo đuổi… Lý tưởng đó đã được tác giả gửi gắm trong tác phẩm “Lục Vân Tiên” - một tác phẩm mang tính chất tự thuật được nhân dân ta yêu thích. Qua hành động “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”, ta phần nào hiểu được quan niệm sống nhân nghĩa cao đẹp ấy.

B.       THÂN BÀI

Sau khi từ giã thầy học của mình, Vân Tiên trở về quê thăm viếng cha mẹ để chuẩn bị lên kinh đô ứng thí, giữa đường gặp người dân chạy loạn do bọn cướp gây nên, chàng đã hỏi qua sự tình và nguyện “Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”…

Trong xã hội phong kiến việc thi cử là một việc hệ trọng đối với kẻ sĩ. Ở hoàn cảnh bất thường đó, người ta thường dễ né tránh mọi nguy hiểm để giữ toàn tính mạng… Thế nhưng Lục Vân Tiên đã không suy nghĩ theo kiểu thường tình như vậy, thấy người bị nạn, chàng đã tìm cách cứu giúp bằng cách “bẻ cây” làm vũ khí xông vào đánh bọn cướp:

“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”.

Đó là hành động giàu lòng nghĩa hiệp của một con người. Tính cách vì nghĩa không chỉ thể hiện ở hành động mà còn đọng lại trong lời kết tội bọn cướp:

“Kêu rằng: bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”

Nghĩa cử cao đẹp ấy xuất phát từ lòng yêu thương những người dân lương thiện vô tội và cũng vì họ mà chàng sẵn sàng cản ngăn những việc làm “hại dân” của lũ côn đồ hung bạo kia. Việc xảy ra giữa đường, những người dân chạy cướp kia đều không hề có liên quan đến chàng. Thế nhưng thấy việc nghĩa là phải ra tay, việc làm ấy sao giống nghĩa cử của Hớn Minh, ông Ngư…

" Chuyển: Mặc dù chàng chỉ có một thân một mình, vũ khí chỉ là cây gậy còn bọn cướp thì đông đảo “Lâu la bốn phía bổ vây bịt bùng”, có gươm giáo và thật hung hãn thế nhưng chàng vẫn không sờn lòng. Người tráng sĩ ấy đả “tả đột hữu xông”, “Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang”. Chàng đích thực là một người có tài thao lược và tinh thần dũng cảm. Sự dũng cảm ấy làm cho hình ảnh của chàng trở nên đẹp đẽ và khiến cho mọi người thêm phục… Được sự cổ vũ của lý tưởng nhân nghĩa, do tài năng võ nghệ và sự dũng cảm phi thường, Vân Tiên đã làm cho bọn lâu la phải “quăng gươm giáo”, còn tên tướng cướp Phong Lai phải bỏ mạng, chàng thư sinh họ Lục hoàn toàn làm chủ trên chiến trường.

" Chuyển: Tính cách của Lục Vân Tiên còn được bộc lộ qua việc giao tiếp với những nạn nhân vừa được chàng cứu sống… Chàng đã ân cần, thăm hỏi những người bị nạn và thật xúc động khi nghe Kiều Nguyệt Nga trần tình. Đó chính là biểu hiện cho tấm lòng nhân hậu của một con người:

“Vân Tiên nghe nói động lòng
Đáp rằng: ta đã trừ dòng lâu la”…

Không chỉ thực hiện được hai chữ “nghĩa”, “nhân” mà Lục Vân Tiên còn biết giữ cho mình chữ “lễ” theo đúng quan niệm Nho gia xưa kia. Đó là sự giao tiếp đứng đắn của một người có đọc sách thánh hiền với một người phụ nữ hoàn toàn xa lạ với mình;

“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai”.

Nhưng có lẽ điều mà khiến cho mọi người càng thêm cảm phục chàng đó chính là tính cách “trọng nghĩa khinh tài” cao thượng. Khi nghe Nguyệt Nga mời mọc chàng ghé lại nhà và ngỏ ý “báo đức thù công”, Vân Tiên đã khước từ mọi chuyện ân huệ:

“Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn”

Trước tấm chân tình ơn đền nghĩa trả của nạn nhân vừa được cứu giúp, Vân Tiên chỉ đánh đổi bằng một cái cười hồn nhiên của một con người hào hiệp, quen sống vô tư, làm việc nghĩa theo bản tính của mình. Một nụ cười tốt bụng, đôn hậu, rất đặc trưng cho người trai Nam bộ. Nói như nhà thơ Xuân Diệu: “Cái cười đáng yêu, đáng kính sao ! Một là cái cười của anh hùng quân tử, hai là cái cười của anh con trai, ba là cái cười của quần chúng rộng lượng, đều ở trên môi Vân Tiên”. Hơn nữa, thấy việc nghĩa là phải ra tay đó là nghĩa vụ của kẻ làm trai, là thước đo phẩm chất của một người anh hùng theo quan nệm của Vân Tiên mà cũng là quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu và nhân dân ta nói chung:

“Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”

Trong lời nói hào hiệp đó, ta nghe âm vang tiếng nói của Từ Hải trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du vốn được nhiều người yêu mến và ca tụng:

“Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”

Với một chiếc gậy bên đường mà một mình dám xông vào một lũ lâu la quen nghề gươm giáo, việc làm ấy thật nguy hiểm mà vẫn thản nhiên như không đồng thời chỉ đánh đổi bằng một nụ cười nhẹ nhàng, đáng yêu. Hành động, tâm tư tình cảm của Vân Tiên là bóng dáng cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu… Đó còn là suy nghĩ và hành động vì nghĩa của cả tập thề những con người biết sống đẹp mà tác giả đã tái hiện trong tác phẩm: một ông Ngư “Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”, một Hớn Minh nghĩa hiệp… Có thể nói là Nguyễn Đình Chiểu đã đưa vào trận “Cả một đạo quân bừng bừng khí thế, kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu và chiến thắng” (Hoài Thanh). Hành động nghĩa hiệp ấy thật đẹp. Lý tưởng sống của cụ Đồ Chiểu rất gần với lý tưởng anh hùng của thời đại chúng ta…

C.      KẾT BÀI

Qua việc vận dụng nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật theo thủ pháp quen thuộc của truyện cổ dân gian: để cho nhân vật trực tiếp bộc lộ bản chất, tính cách bằng hành động cụ thể, đoạn trích đã làm ngời lên nhân vật trung tâm của truyện: một con người có bản tính nhân nghĩa hào hiệp, giàu lòng thương người, một hiện thân của cái thiện chống cái ác…

Hình ảnh Lục Vân Tiên như nhắc nhở thế hệ trẻ chúng ta sống phải có trách nhiệm với mọi người, luôn luôn có ý thức mình là con cháu Nguyễn Đình Chiểu, một người mang dòng máu anh hùng, vô tư hào hiệp của nhân dân Nam bộ, của dân tộc Việt Nam.

Charles.Hieu
“Phân tích riêng cho con, Minh Phúc”